Sự hài lòng của người dân đối với các chính sách văn hóa xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ cung ứng dịch vụ công thông qua Chỉ số PAPI

16/12/2019 09:52 Số lượt xem: 73

Cung ứng dịch vụ công cho xã hội là trách nhiệm vô cùng to lớn và khó khăn của mọi nhà nước trong thời đại ngày nay, đồng thời cũng là một trong hai chức năng quản lý xã hội quan trọng của Nhà nước. Nhu cầu về dịch vụ công của xã hội là không có giới hạn và luôn biến động.

1. Một số vấn đề cơ bản về cung ứng dịch vụ công

Ở các nước phương Tây, thuật ngữ “dịch vụ công” được sử dụng khá sớm và việc cung ứng dịch vụ công cho xã hội luôn là vấn đề được đặt ra hàng đầu. Cách hiểu về dịch vụ công ở các nước khá thống nhất, đó là công việc của chính phủ nhằm mang lại lợi ích cho công chúng không vì mục tiêu lợi nhuận; cung cấp các hàng hóa công cộng thiết yếu cho người dân. Ở Việt Nam, thuật ngữ này mới được chính thức đưa vào sử dụng tháng 8 năm 1999 tại Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VIII. Quan điểm về dịch vụ công ở Việt Nam lại có nhiều cách hiểu khác nhau.

Nguyễn ngọc Hiến (2002) cho rằng khái niệm dịch vụ công bao gồm một số loại dịch vụ khác nhau, thậm chí rất khác biệt nhau về tính chất. Tuy nhiên, có thể thấy các loại dịch vụ này có hai điểm chung: Thứ nhất, về tính chất sử dụng, các dịch vụ này đều phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của đông đảo nhân dân; Thứ hai, về trách nhiệm bảo đảm dịch vụ cho xã hội: Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này cho xã hội.

Diệp Văn Sơn (2004) cho rằng: dịch vụ công là những hoạt động thực thi chức năng quản lý nhà nước và bảo đảm phục vụ cho lợi ích chung tối cần thiết của xã hội, do các cơ quan công quyền hay các chủ thể được cơ quan công quyền ủy nhiệm đứng ra thực hiện. Nói cách khác dịch vụ công là hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước và bảo đảm cung ứng những hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu (lợi ích) thiết yếu của xã hội.

Phạm Quang Lê (2004) không đưa ra định nghĩa dịch vụ công mà ông phân tích mối quan hệ giữa dịch vụ công và công vụ. Theo đó, dịch vụ công là khái niệm trong đó từ “công” để chỉ chủ thể có trách nhiệm cung ứng vì lợi ích chung (công cộng). Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cao nhất trước xã hội, sông việc thực hiện còn có các tổ chức dân sự, tổ chức kinh tế và tư nhân đảm nhiệm. Do vậy, “công” ở đây là công cộng thay vì công quyền. Mục tiêu của dịch vụ công là cung ứng hàng hóa công cộng không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ và không nhằm mục đích thu lợi nhuận. Phạm Quang Lê chia dịch vụ công thành 3 loại: 1) dịch vụ công ích phục vụ chung cho cả cộng đồng; 2) dịch vụ sinh hoạt công cộng (điện, nước sinh hoạt,…); 3) dịch vụ xã hội phục vụ với mục đích nhân đạo.

Thông qua những nghiên cứu khác nhau, cách tiếp cận khác nhau có thể đưa ra những quan điểm thống nhất:

- Dịch vụ công là một loại dịch vụ chứ không phải là hàng hóa nên sẽ mang đủ các thuộc tính của dịch vụ như tính vô hình, tính đồng thời, tính đa dạng và tính mất đi.

- Dịch vụ công là dịch vụ mang đặc tính công với nghĩa là dịch vụ;

- Do cơ quan công quyền đảm nhận;

- Đáp ứng cho các nhiệm vụ công (các đòi hỏi mang tính thiết yếu do xã hội yêu cầu thông qua các lợi ích chung, các quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và người dân mà nhà nước đã cam kết thực hiện).

- Hoạt động theo thể chế công và theo quan điểm đạo đức công (phi lợi nhuận, ổn định, bình đẳng, hiệu quả).

Dịch vụ công có thể phân loại thành 4 loại:

- Dịch vụ công đặc thù hay còn được gọi là dịch vụ công truyền thống nhằm thực hiện chức năng quản lý của nhà nước đối với xã hội.

- Dịch vụ hành chính công là các hoạt động của bộ máy hành pháp nhà nước cung ứng trực tiếp cho các tổ chức và người dân các hàng hóa công cộng theo luật định nhằm vận hành xã hội trong trật tự, kỷ cương đã định với mức thu phí bằng nhau không đáng kể; bao gồm: cấp phép, cấy giấy chứng nhận,…

- Dịch vụ sự nghiệp công: là loại dịch vụ công cung cấp chủ yếu các hàng hóa công cộng cho người dân như: giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao và du lịch, bảo hiểm, an sinh xã hội…

- Dịch vụ công cộng: là dịch vụ có thu phí nhằm đáp ứng các nhu cầu bức thiết của công dân mang tính phi lợi nhuận do các cơ sở thực hiện theo yêu cầu của cơ quan hành pháp nhà nước như: cung cấp nước, vệ sinh môi trường, giao thông,…

2. Sự hài lòng của người dân về chính sách văn hóa xã hội từ Cung ứng dịch vụ công thông qua Chỉ số PAPI Bắc Ninh

Cung ứng dịch vụ công trong PAPI tập trung đo lường mức độ hiệu quả cung ứng bốn dịch vụ công căn bản cho người dân, bao gồm: Y tế công, Giáo dục tiểu học công, Cơ sở hạ tầng căn bản và An ninh trật tự tại địa bàn khu dân cư. Thông qua khảo sát PAPI người dân chia sẻ trải nghiệm của mình về mức độ thuận tiện khi sử dụng dịch vụ công, chất lượng và mức độ sẵn có của các dịch vụ công căn bản. Trong năm 2018, ba chỉ tiêu được bổ sung gồm tỷ lệ hộ gia đình không bị cắt điện thuộc nội dung thành phần “Cơ sở hạ tầng căn bản” và tỷ lệ người cảm thấy an toàn khi đi bộ một mình vào ban ngày và ban đêm thuộc nội dung thành phần “An ninh trật tự khu dân cư”.

Bảng. Thứ hạng Chỉ số PAPI của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2011 – 2018

CHỈ SỐ NỘI DUNG

THỨ HẠNG CÁC NĂM

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Tham gia của người dân ở cấp cơ sở

6

10

43

19

6

2

2

14

Công khai, minh bạch

45

54

33

53

20

1

6

16

Trách nhiệm giải trình với người dân

31

50

10

46

3

45

30

13

Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công

60

45

41

53

39

38

27

23

Thủ tục hành chính công

29

56

44

33

1

36

14

38

Cung ứng dịch vụ công

27

26

11

20

2

8

2

10

Quản trị môi trường

-

-

-

-

-

-

-

33

Quản trị điện tử

-

-

-

-

-

-

-

9

Chỉ số tổng hợp PAPI

39

49

33

46

2

8

4

10

Nguồn: Viện Nghiên cứu Phát triển KTXH tỉnh Bắc Ninh tổng hợp

Nhìn vào bảng dữ liệu nhận thấy, chỉ số thành phần cung ứng dịch vụ công tỉnh Bắc Ninh năm 2018 tuy vẫn đứng trong nhóm có điểm số cao nhưng có sự giảm điểm so với năm 2017, từ 7,75 điểm năm 2017 xuống 7,36 điểm năm 2018; giảm từ vị trí thứ 2 xuống vị trí thứ 10 (giảm 8 bậc so với năm 2017).

Trong 4 nội dung thành phần, có 3 nội dung giảm điểm, trong đó ở nội dung ‘Giáo dục tiểu học công lập’ có sự giảm điểm lớn nhất, đó là:

‘Y tế công lập’ giảm từ 2,10 điểm năm 2017 xuống 2,06 điểm năm 2018 (giảm 0,04 điểm);

‘Giáo dục tiểu học công lập’ giảm từ 1,98 điểm năm 2017 xuống 1,72 điểm năm 2018 (giảm 0,26 điểm);

‘An ninh, trật tự khu dân cư’ giảm từ 1,67 điểm năm 2017 xuống 1,45 điểm năm 2018 (giảm 0,22 điểm).

Riêng chỉ có nội dung ‘Cơ sở hạ tầng căn bản’ có sự tăng điểm so với năm 2017: tăng từ 2,01 điểm năm 2017 lên 2,14 điểm năm 2018 (tăng 0,13 điểm).

Tại nội dung ‘An ninh, trật tự khu dân cư’ thêm 2 tiêu chí thành phần mới lại có thứ hạng ở vị trí trung bình cao.

Đối với nội dung thành phần ‘Y tế công lập’, tỷ lệ người dân có bảo hiểm y tế tăng, cho thấy người dân đã tin tưởng vào bảo hiểm y tế, quyền lợi mà bảo hiểm đem lại cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên, qua khảo sát PAPI năm 2018 người dân cho biết, tỷ lệ người nghèo được hỗ trợ mua bảo hiểm y tế và tỷ lệ trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí khám chữa bệnh lại có xu hướng giảm điểm so với năm 2017.

Tổng chất lượng bệnh viện tuyến huyện có sự tăng điểm so với năm 2017, điều này cho thấy sự hài lòng của người dân đối với chất lượng bệnh viện đã tăng lên, đồng thời cho thấy sự nỗ lực của các bệnh viện trong việc cải thiện chất lượng để làm hài lòng người dân khi tới đây khám chữa bệnh.

Ở nội dung ‘Giáo dục tiểu học công lập’, nhận xét về chất lượng dạy học củ trường tiểu học công lập và đánh giá về tổng chất lượng trường tiểu học tại địa bàn xã/phường có sự giảm điểm. Đây có thể coi như chỉ báp về mức độ hài lòng của người dân đối với chính sách phát triển giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học.

Nội dung thành phần ‘An ninh, trật tự khu dân cư’ là nội dung được xếp ở mức trung bình cao. Trong đó, tỷ lệ người dân cho biết có thay đổi về mức độ an ninh theo hướng tốt lên không tăng.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của dịch vụ công, đem đến sự hài lòng của người dân đối với các chính sách xã hội của tỉnh

Để đem lại sự hài lòng hơn nữa của người dân đối với dịch vụ công cần phải có những biện pháp thực hiện có hiệu quả.

Đối với chất lượng dịch vụ y tế cần nâng cao chất lượng các bệnh viện công lập, thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong tỉnh, có những chính sách ưu tiên cho những bệnh nhân dưới 6 tuổi. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt quy định về đạo đức, về chế độ giao tiếp và các quy tắc ứng xử để nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ cho người dân.

Đối với các chính sách bảo hiểm, giải quyết tốt trong việc thanh toán bảo hiểm đảm bảo quyền lợi cho người dân trong công tác khám chữa bệnh. Ngoài ra, cần tiếp tục mở rộng và phát triển đối tượng, nâng cao tỷ lệ người dân có bảo hiểm y tế, có những chính sách nhằm hỗ trợ cho những người nghèo trong việc mua bảo hiểm y tế để tạo điều kiện cho họ có quyền lợi từ bảo hiểm y tế.

Đối với giáo dục cần đẩy mạnh cải cách nâng cao mức độ hài lòng của người sử dụng dịch vụ giáo dục công, nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đạt chuẩn về chuyên môn đảm bảo cho dạy và học tại các trường trên địa bàn tỉnh. Đầu tư về cơ sở vật chất để đưa tổng chất lượng trường học được tăng lên.

Chú trọng phát triển hạ tầng kỹ thuật và nâng cao chất lượng dịch vụ điện, nước, giao thông công cộng; an ninh trật tự; cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản tại các khu công nghiệp.

Nguyệt Nguyễn - Viện Nghiên cứu Phát triển KTXH tỉnh